Thống kê truy cập
  • Đang truy cập: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tổng lượt truy cập: 1
Đăng nhập
Đền Bà Hoàng thuộc địa bàn Tổ 7, phường Sông Bằng, thành phố Cao Bằng
Đền Bà Hoàng thuộc địa bàn Tổ 7, phường Sông Bằng, thành phố Cao Bằng
ĐỀN BÀ HOÀNG
Lê Chí Thanh
Đền Bà Hoàng thuộc địa bàn Tổ 7, phường Sông Bằng, thành phố Cao
Bằng; ngôi đền thờ Minh Đức Hoàng Hậu A Nùng, vợ của Nùng Tồn Phúc, mẹ
của Nùng Trí Cao. Khi xưa, Đền Bà Hoàng tọa lạc ven chân núi Kim Pha sừng
sững, bạt ngàn rừng đại ngàn nhiệt đới nguyên sinh; cạnh đó, là núi Mã Phi như
bầy ngựa chiến nhấp nhô tung vó in hình lên lưng trời xanh thẳm. Phía bên phải
là con suối nước trong vắt quanh năm rì rào chảy về cánh đồng Nà Cạn cung cấp
nước cho lúa và hoa màu tươi tốt quanh năm. Toàn cảnh phía sau đền như bức
tranh thủy mặc rồng bay, phượng múa, sơn thủy hữu tình đẹp huyền ảo, làm cho
ngôi đền thêm linh thiêng.
Đền được xây bằng gạch, ba gian lợp ngói âm dương, mỗi gian rộng
chừng 3m; hai đầu hồi có trang trí Lưỡng phượng chầu nhật. Năm 1947, thực
dân Pháp phá đền, dựng đồn bảo vệ sân bay Nà Cạn, ngôi đền bị phá hủy hoàn
toàn, chỉ còn trơ lại nền gạch, không còn dấu tích xưa. Để đáp ứng nhu cầu tín
ngưỡng tâm linh, năm 2016, bằng nguồn kinh phí xã hội hóa, nhân dân vùng Nà
Cạn đã dựng lại đền trên nền cũ, mặt tiền hướng Tây-Nam. Gian giữa có một bệ
thờ đặt tượng Bà Hoàng đội mũ màu vàng. Hai bên là 02 ban thị giả và 02 ban
phụ; phía dưới chính tượng là ban thổ công. Phía trái là cổng đường vào đền.
Mặt trước đền được trang trí hoa, cây cảnh, đôi phượng hoàng, lư hương, con
rùa đá…để phục vụ cho nghi lễ chùa.
Minh Đức Hoàng Hậu là người phụ nữ Việt Nam danh tiếng, một thời
lừng lẫy gắn liền với một chặng đường lịch sử dựng nước và giữ nước hào hùng
của dân tộc trên vùng đất biên viễn phía Bắc chúng ta. Vào thế kỷ XI, năm Mậu
dần 1038, một tù trưởng tên là Nùng Tồn Phúc ở châu Quảng Nguyên (vùng đất
Cao Bằng ngày nay) tự xưng là Chiêu Thánh Hoàng Đế, đặt quốc hiệu Trường
Sinh, lập vợ là A Nùng làm Hoàng hậu, cát cứ một vùng rộng lớn đối diện với
Nhà Tống ở bên kia biên giới. Triều Lý cho là làm phản, năm 1039, Vua Lý
Thái Tông thân chinh thống lĩnh đại quân lên Cao Bằng dẹp loạn, bắt được
Nùng Tồn Phúc và con trưởng Nùng Trí Thông dẫn giải về kinh đô xử tội. Hai
mẹ con A Nùng và con thứ là Nùng Trí Cao chạy thoát thân. Năm Tân tỵ niên
hiệu Càn phủ hữu đạo thứ ba triều Lý 1042, Trí Cao thừa kế chức cha xin dâng
biểu triều đình. Vua Lý thương tình, ra chiếu tha tội và cho mẹ con Trí Cao cai
quản châu Quảng Nguyên để giữ vững vùng đất phên dậu và còn ban cho đô ấn,
phong chức Thái bảo. Năm Nhâm ngọ niên hiệu Minh đạo nguyên niên 1043,
hai mẹ con chiếm cứ được ba châu: Do Lôi, Hỏa Động, Thảng Do và dựng nên
nước Đại Lịch. Nhà Lý cho thêm 4 động: Hỏa Lôi, An Bình, Bà và châu Tư
Lang. Sau đó, Trí Cao dâng biểu triều đình dẫn binh đi đánh Ung Châu Nhà
Tống, mở mang bờ cõi. Cuộc chinh phạt đánh đâu thắng đấy, kết cục lấy được
cả vùng đất Lĩnh Tây. Năm 1049, Trí Cao và bà A Nùng chiếm giữ được châu
An Đức, tự xưng là Nam Thiên Quốc; đến năm 1052, đánh chiếm xong Ung
Châu, Trí Cao xưng là Nhân Huệ hoàng đế và đặt Quốc hiệu Đại Nam, thế mạnh

như chẻ tre, đến đâu cũng vỗ về an dân, được dân ủng hộ. Nhà Tống phải khiếp
sợ kinh hoàng, ra chiếu: nếu ai giết được A Nùng hoặc Trí Cao sẽ được thưởng
3.000 quan. Theo truyện lưu truyền trong dân gian, một năm sau đó, Nùng Trí
Cao bị thua trận ở Côn Lôn, chạy về phủ thự, ngày ngày buồn bã rồi cưỡi ngựa
đi đâu biệt xứ. Bà A Nùng chiếm giữ động Đặc Ma, nay là vùng Vân Sơn tỉnh
Vân Nam, nuôi trí trả thù cho con, Bà sai Nông Hạ Khanh, chiêu tập binh lính
lên tới hơn vạn quân, mua sắm vũ khí, dự trữ lương thực, lập đội kỵ binh đánh
lên phía Bắc, làm rung chuyển đất Ung Châu. Sau bị thua trận, Bà chạy về
Quảng Nguyên và mất tại đây.
Minh Đức Hoàng Hậu A Nùng người phụ nữ đôn hậu, mạnh mẽ, tài giỏi,
mưu lược. Bà đã có công lớn nuôi dạy, rèn luyện võ nghệ cho con trai Nùng Trí
Cao, sau này Trí Cao trở thành một dũng tướng miền biên ải, người anh hùng
giúp Nhà Lý dựng nên thành lũy trấn giữ biên cương, bảo vệ một vùng rộng lớn
cương vực phía bắc của lãnh thổ quốc gia. Bà là quân sư trực tiếp cho Trí Cao
trong từng trận đánh và được Nhà Lý mời làm cố vấn tướng lĩnh. Ngoài ra, Bà
còn dạy nhân dân biết trồng lúa, hoa màu, chăn nuôi gia súc béo tốt, được dân
chúng suy tôn là Thần gia súc.
Nhà Lý đặc chiếu truy phong bà A Nùng làm Bà Hoàng Đại Vương; để
ghi nhớ công lao của Bà, nhân dân châu Quảng Nguyên lập đền thờ tại thôn phù
Vạn, xã Kim Pha, châu Thạch Lâm. Ngôi đền mang tên Đền Bà Hoàng từ đó.
Thời triều Lý, ngôi đền được phong là Thượng đẳng thần, xuân thu nhị kỳ quốc
lễ. Các triều đại tiếp tục vinh tôn gia phong mỹ tự: Bà Hoàng phổ ứng hiển linh
diệu cảm, Hồng hựu tĩnh trấn biên phu linh thông, phục viễn ninh cảnh, Vũ di
hiển hưu, Cảm ứng hộ quốc, Ninh dân dương vũ đinh công Đại Vương.
Lễ hội Đền Bà Hoàng được tổ chức vào hai ngày 14 và 15 tháng giêng
âm lịch trong năm. Lễ hội vừa thể hiện lòng thành kính với Bà Hoàng Đại
Vương, vừa mang tính chất cầu mùa, cầu phúc, mong được Bà ban cho cuộc
sống an lành, may mắn. Để chuẩn bị cho ngày lễ hội, nhân dân trong vùng tự
giác đóng góp mỗi nhà một bơ gạo, ít tiền để mua hương hoa, tổ chức nghi lễ.
Lễ vật thờ cúng gồm: mâm xôi, con lợn quay hoặc thủ lợn; đặc biệt có thêm một
đoạn phèo non, sau thay bằng bánh chè lam cùng với hoa quả và ba bông lau to,
tượng trưng cho bông lúa được mùa. Gia đình được chọn để dâng mâm lễ, là gia
đình làm ăn thuận lợi từ năm trước, mọi người đều mạnh khỏe, con cháu thành
đạt, ngoan ngoãn. Nghi lễ diễn ra long trọng, chủ tế là người có vai vế, uy tín
trong vùng. Sau khi xong phần nghi lễ, gia đình dâng mâm lễ sẽ được cầm ba
bông lau đem về cắm vào ruộng nhà mình, với ước mong cả vùng, trong đó có
ruộng nhà bội thu. Tại lễ hội còn tổ chức các trò chơi dân gian ngay tại sân trước
Đền. Sau đó, mọi người cùng nhau thụ lễ, ăn uống vui vẻ, đoàn kết, đông vui,
thắm tình làng, nghĩa xóm, khu phố. Đền Bà Hoàng đã được xếp hạng di tích
lịch sử văn hóa cấp tỉnh theo Quyết định số 2485/QĐ-UBND của Ủy ban nhân
dân tỉnh Cao Bằng, ngày 04/11/2008.
Bà Hoàng Đại Vương A Nùng, một nhân vật nổi tiếng trong lịch sử thế kỷ
XI, người phụ nữ thao lược, tài ba, có công lớn trong thời Nhà Lý. Hình ảnh của

Bà và ngôi đền thờ tự đã đi vào các trang tư liệu cố như Đại Việt sử ký toàn thư;
trong cuốn “Đền thờ và lăng tẩm Việt Nam”, Bà Hoàng Đại Vương A Nùng đã
được vinh danh trang trọng. Đến với Đền Bà Hoàng, giúp chúng ta hiểu biết
thêm một trang sử hào hùng, biết ơn và tự hào về một bậc tiền nhân- người mẹ
của Khau Sầm Đại Vương Nùng Trí Cao, khơi dậy lòng yêu nước nồng nàn
trong sự nghiệp dựng nước và gi]x nước

Tin tức
Đăng nhập
ipv6 readyChung nhan Tin Nhiem Mang